nvdtdnguyen
member
ID 19507
02/01/2007
|
Đại Danh Y Tuệ Tĩnh
Tuệ Tĩnh chính tên là Nguyễn Bá Tĩnh, biệt hiệu là Hồng Nghĩa, pháp hiệu (theo tên gọi của nhà chùa) là Tuệ Tĩnh. Ông sinh ra ở làng Nghĩa Phú (tục gọi là làng Xưa), thuộc tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng (gần Kẻ Sặt), phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương - nay là thôn Nghĩa Phú, xă Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Thôn này ở cách ga Cao Xá trên đường sắt Hà Nội - Hải Pḥng 1,5 km và cách tỉnh lỵ Hải Dương hơn 10 km.
V́ sinh ở làng Nghĩa Phú, phủ Thượng Hồng, nên Tuệ Tĩnh đặt biệt hiệu là Hồng Nghĩa. V́ thế mà sau này ông có tác phẩm "Hồng Nghĩa giác tư y thư", và cuốn "Nam Dược Thần Hiệu", là hai tác phẩm quư giá c̣n để lại cho chúng ta đến hôm nay.
Về năm sinh của Tuệ Tĩnh cho đến nay vẫn c̣n nhiều ư kiến khác nhau. Về thanh danh của Tuệ Tĩnh, các tài liệu cũng chưa thống nhất. Tương truyền, Tuệ Tĩnh là một nhà sư thông minh lỗi lạc, thi đậu Đệ nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp, và lại giỏi thuốc trị bệnh nên bị bắt đi cống cho nhà Minh. Ở Trung Quốc, Tuệ Tĩnh đă chữa cho Tống Vương Phi (vợ vua Minh) khỏi bệnh sản hậu nên được phong là "Đại Y Thiền Sư". Hiện nay ở các đền thờ ông, có các câu đối ngụ ư về các sự tích đó. Thí dụ ở đền bia làng Văn Thai có câu:
Hoàng giáp phương danh đằng Bắc địa,
Thánh sư diệu dược trấn Nam Bang.
Được tạm dịch như sau:
Thi đậu Hoàng giáp tiếng lừng Trung Quốc
Chữa bệnh thần diệu tài quán Nam Bang.
Nhưng theo cuốn: "Hải Dương phong vật chí" (A.882 Fo 76b của Thư viện khoa học) chép: "Tuệ Tĩnh tiên sinh, thầy thuốc danh tiếng ở xă Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng, chuyên dùng thuốc nam chữa bệnh rất công hiệu, có chép các tập dược tính chỉ nam và 13 phương gia giảm truyền lại đời sau".
Sử sách c̣n chép lại rằng: Lúc Tuệ Tĩnh lên sáu tuổi th́ cha mẹ đều mất, v́ mồ côi nên ông được một ḥa thượng chùa Hải Triều ở Yên Trang (sau này gọi là chùa Nghiêm Quang, tức chùa Giám, thuộc xă Tân Sơn, huyện Cẩm B́nh) đem về nuôi dạy. Năm lên 10 tuổi, ông đă được sư cụ chùa Giao Thủy, ở Sơn Nam (Nam Định) đưa về cho học với các nhà sư trong chùa Dũng Nhuệ. Ở chùa này, ông có pháp danh là Tiểu Huệ, biệt danh là Tuệ Tĩnh. Ông được nhà chùa cho học chữ và học nghề thuốc để giúp việc chữa bệnh cho dân nghèo trong xă, huyện. Năm 22 tuổi, Tuệ Tĩnh đi thi Hương và đỗ nhất bảng, nhưng ông không ra làm quan mà vẫn ở lại chùa tiếp tục việc chữa bệnh, lấy pháp hiệu Tuệ Tĩnh cũng từ đó. Năm 30 tuổi, Tuệ Tĩnh trở về chùa Yên Trang làm sư trụ tŕ, tu sửa lại chùa và nhiều chùa khác trong huyện. Năm 45 tuổi, Tuệ Tĩnh đi thi Đ́nh và đỗ Hoàng giáp. Năm 55 tuổi, ông bị bắt đi sứ sang Trung Quốc, được Minh triều giữ lại làm việc ở Viện thái y, rồi mất tại tỉnh Giang Nam (không rơ tại huyện, xă nào ở tỉnh này?).
Về sự nghiệp y học của Tuệ Tĩnh, ông đă soạn các sách "Dược tính chỉ nam" và "Thập tam phương gia giảm"... những bản nguyên tác của ông nay không c̣n trọn vẹn, do vào cuối thế kỷ 14, giặc ngoại xâm sang xâm chiếm nước ta, chúng đă phá hủy nhiều thư tịch lớn. Những bản hiện c̣n do người đời sau ghi chép qua truyền khẩu dân gian như: "Nam Dược Thần Hiệu" do Ḥa thượng Bản Lai chùa Hồng Phúc (ở Ḥe Nhai,Hàng Than, Hà Nội) biên tập, bổ sung vào năm Tân Tỵ cách đây đúng 240 năm (1761-2001).
"Nam dược chính bản", do triều đ́nh Lê Dụ Tông biên tập (sau đổi tên sách là "Hồng Nghĩa giác tư y thư") và được in vào năm Ất Dậu (1717) gồm: "Quyển thượng và quyển hạ".
Trong cuốn "Hồng Nghĩa giác tư y thư", nhà xuất bản y học, Hà Nội - 1978, lại chép: sách "Hồng Nghĩa giác tư y thư" do Y viện triều Lê Dụ Tông xuất bản năm Quư Măo (1723).
Quyển Thượng: "Nam Dược Quốc Ngữ Phú" gồm 590 tên vị thuốc nam và "Trực giải chỉ nam dược tính phú" gồm đặc tính của 220 vị thuốc nam. Quyển Hạ: "Y luận", là sách viết về các lư luận từ âm dương ngũ hành sinh hóa vào con người trong tiết khí bốn mùa, sự ảnh hưởng vào bệnh tật, cách điều trị lâm sàng. Và "Thập tam phương gia giảm" phụ "Bổ âm đơn và dược tính phú" bằng chữ Hán. Là sách hướng dẫn gia, giảm khi dùng thuốc chữa bệnh.
Cuốn "Nam Dược Thần Hiệu" của Tuệ Tĩnh, được nhà xuất bản Y học, in lần thứ hai vào năm 1972. Bộ này gồm 11 quyển: Quyển đầu nói về dược tính của 119 vị thuốc nam. Mười quyển sau, mỗi quyển nói về một khoa trị bệnh...
C̣n cuốn: "Hồng Nghĩa giác tư y thư" của ông, được nhà xuất bản Y học, Hà Nội, in năm 1978 gồm chín phần lớn (chưa kể lời giới thiệu của nhà xuất bản và lời tựa của các quân y Viện triều Lê Dụ Tông, dày 319 trang). Cả hai bộ sách này của Tuệ Tĩnh đều có ảnh hưởng rất sâu rộng trong y gia Việt Nam, mà cho đến hôm nay, vấn đề lư luận và thực tiễn vẫn luôn được thừa kế phát triển và phổ biến. Nhất là cuốn "Nam Dược Thần Hiệu" của ông, nhiều thầy thuốc từ trước đến giờ, vẫn theo phương pháp trị liệu của Tuệ Tĩnh để chữa bệnh rất hiệu quả, mà Hải Thượng Lăn Ông - Lê Hữu Trác - là một bậc Đại y tôn, cũng chịu ảnh hưởng của Tuệ Tĩnh trong công việc biên soạn quyển "Lĩnh Nam Bản Thảo"...
Có thể nói: Tuệ Tĩnh là một danh y Việt Nam đă mở đường cho sự nghiên cứu thuốc nam, xây dựng nền móng cho Y học dân tộc của nước nhà. Ông đă tổng hợp và để lại những bài thuốc kinh nghiệm quư báu cho một số khá nhiều bệnh tật. Đó là một tài liệu có giá trị lớn cho sự thừa kế và phát huy vốn cũ y dược của nhân dân ta, thật là một cống hiến rất lớn của ông. Và cũng chính do gây dựng được phong trào trồng cây thuốc trong gia đ́nh để tự chữa bệnh, nhờ vậy mà năm 1533, với cây thuốc sẵn có mà dân chúng thoát khỏi bệnh sốt rét hoành hành, hay dịch tả tại Thái Nguyên năm Giáp Tuất (1574)...
====================
Nguyễn Duy Cách
nvdtdnguyen sưu tầm.
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
nvdtdnguyen
member
REF: 123950
02/01/2007
|
Tuệ Tĩnh chính tên là Nguyễn Bá Tĩnh, đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh (cũng gọi là Huệ Tĩnh.). Ông xuất thân từ một gia đ́nh bần nông, cha là Nguyên Công Vỹ, me là Hoàng Thị Ngọc 1 ở Nghĩa Lư, huyện Dạ Cẩm, Hồng Châu (nay là thôn Nghĩa Phú, xă Cầm Vũ, huyện Cẩm B́nh, tỉnh Hải Hưng.
Theo truyền thuyết ở địa phương, ông sinh trưởng dưới triều Trần Dụ Tông ( thế kỷ XIV), lúc lên 6 tuổi, cha mẹ đều mất. Ông được nhà sư chùa hải Triều ở Yên Trang gần đấy đưa về nuôi cho ǎn học (chùa Hải Triều sau gọi là chùa Nghiêm Quang tức chùa Giám ở xă Cẩm Sơn, v́ bị đất lở, đă dời đến xă Tân Sơn cùng huyện Cẩm B́nh). Đến 10 tuổi, Bá Tĩnh lại được sư cụ chùa Giao Thủy ở Sơn Nam (Nam Đ́nh) đưa về cho ở học với nhà sư chùa Dũng Nhuệ trong huyện. ở đầy, ông được gọi là Tiểu Huệ, nên có biệt danh là Huệ Tĩnh. Ông được học vǎn và học thuốc để giúp việc chữa bệnh ở chùa.
Đến 22 tuổi, ông đi thi hương trúng bảng, nhưng vẫn ở chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. ông tiếp tục việc chữa bệnh giúp dân ở chùa này và phát triển thêm một số cơ sở chữa bệnh ở các chùa lân cận, như chùa Hộ Xá (Nghĩa Xá). Nǎm 30 tuổi, ông trở về trụ tŕ chùa Yên Trang. Ông đă tu bổ lại chùa này với một số chùa khác (24 ngôi) ở hạt Sơn Nam và quê hương, huấn luyện y học cho các tǎng ni để mở rộng việc chữa bệnh làm phúc.
Nǎm 45 tuổi, ông thi đ́nh. đậu Hoàng giáp. Nǎm 55 tuổi ông bị bắt đi sứ sang Trung Quốc. Ông được nhà Minh giữ lại làm việc ở Viện Thái y, rồi mất ở bèn ấy, không rơ nǎm nào. 2
Sự nghiệp trước tác: về phật học, ông đă giải nghĩa bằng chữ nôm 3 sách Thiền tông khóa hư lục của vua Trần Thái Tông soạn.
Về y học ông đă soạn các sách Dược tính chỉ nam và Thập tam phương gia giảm (theo Hải Dương phong vật chí), nhưng phần nguyên tác của Tuệ Tĩnh không c̣n tṛn vẹn do binh hỏa, cụ thể các thư tịch của ta đă ~bị quân nhà Minh phá hủy ḥi đầu thế kỷ XV khi chúng sang xâm chiếm nước ta. Những tác phẩm c̣n lại đến nay đều do người đời sau biên tập lại với tài liệu thu thập trong nhân dân. Hiện có:
1 Bộ Nam dược thần hiệu, do Ḥa thượng Bản Lai ở chùa Hồng Phúc ở Trung Đô (phố Ḥe Nhai, dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay) biên tập, bổ sung và in lại nǎm 1 761, gồm Bản thảo dược tính 499 vị, (bằng thơ) và 10 khoa chữa bệnh, với 3932 phương thuốc nam ứng trị 184 loại bệnh, kèm theo môn thuốc chữa gia súc.
2. Nam dược chính bản, do triều Lê Dụ Tông đổi tên là Hồng nghĩa giác tư y thư và in lại nǎm 1717, quyển thượng gồm: Nam dược quốc ngữ phú (danh từ được học 590 vị thuốc nam). Trực giải chỉ nam dược tính phú (220 vị thuốc nam và một thiên Y luận về lư luận cơ bản, âm dương ngũ hành, tạng phủ, kinh mạch (thiên này xuất hiện ở bản in lại nǎm 1 723: AB. 288)
3 Thập tam phương gia giảm, phụ Bổ âm đơn và Dược tính phú (242 vị.) bằng chữ Hán, gồm 13 cổ phương đông y và phương Bổ âm đơn do tác giả sáng chế cùng phương pháp.
1. Theo thần phả đến Yên Lư, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Pḥng.
2. Quốc sử di biên của Sứ quán triều Nguyễn nói Tụê Tĩnh mất ở Giang Nam Trung Quốc.
3. Theo Đào Duy Anh nói ở lời đầu sách dịch Thiền tông khóa hư lục, th́ vǎn vần chữ nôm xưa nhất là mấy bài phú đời Trần. Về vǎn xuôi th́ sách giải nghĩa Thiền tông khóa hư lục của Tuệ Tĩnh cuối thời Trần là xưa nhất.
Gia giảm dùng chữa các loại bệnh ngoại cảm, ôn dịch và nội thương tạp bệnh (Thư viện Hán Nôm VHc 3626).
4. Thập tam phương gia giảm và Bổ âm đơn đă được đời sau diễn dịch ra ca nôm và in ở Hồng Nghĩa giác tư y thư quyền hạ nǎm 1723 (AB 306).
5. Một bài Nhân thân phú (tương truyền, của Tuệ Tinh), khái quát về lư luận cơ bản người tương ứng với thiên nhiên, cơ nǎng sinh lư, tạng phủ khí huyết và đường hướng dưỡng sinh chú trọng giữ ǵn tinh khí thần để nâng cao tuổi thọ.
Tuệ Tĩnh đă xây dựng nền móng của y học nước nhà với truyền thống chữa bệnh bằng thuốc nam, theo phương châm "Thuốc nam Việt chữa người Nam Việt ". Ông đă gây phong trào trồng thuốc ở gia đ́nh, vườn đền chùa và thu trữ thuốc theo thời vụ để có sẵn thuốc chữa bệnh kịp thời. Truyền thống của Tuệ Tĩnh đă được đời sau thừa kế và phát huy rạng rỡ trong việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân và phát triến y học dân tộc:
- Hoàng Đôn Ḥa, Lương dược hầu dưới triều Lê Thế Tông, quê ở Đa Sĩ (xă Kiến Hưng, tỉnh Hà Tây) đă chữa bệnh rộng răi và cứu cho nhân dân qua khỏi vụ dịch nǎm 1533 với thuốc nam trồng kiếm tại địa phương, và chữa cho quân đội triều Lê khỏi dịch sốt rét và thồ tả ở Thái Nguyên nǎm 1574 với thuốc Tam hoàng hoàn gồm Hoàng nàn, Hoàng lực do Tuệ Tĩnh đă phát hiện ở Nam dược thần hiệu và Hùng hoàng đă được dùng chống khí độc lam chướng ở Thập tam phương gia giảm. Đường lối dưỡng sinh của Tuệ Tĩnh nói ở Bổ âm đơn về pḥng bệnh hư lao, đă được Hoàng Đôn Ḥa cụ thể bằng thuyết "Thanh tâm tiết dục" với phép "Tịnh công hô hấp" ở sách Hoạt nhân toát yếu.
- Hải Thượng Lăn Ông (thế kỷ XVIII) đă thừa kế 496 bài thơ dược tính của Nam dược thần hiệu chép vào sách Lĩnh nam bản thảo, với nhiều phương thuốc nam của Tuệ Tinh chép vào các tập Hành giản trân nhu và Bách gia trân tàng. Đường hướng dưỡng sinh của Tuệ Tỉnh về giữ ǵn tinh khí thần để sống lâu cũng được Lăn Ông phụ họa thêm ở thiên Khởi cư của tập "Vệ sinh yếu quyệt ".
- Đặc biệt truyền thống thuốc nam của Tuệ Tĩnh đă để lại tập quán trong nhân dân: trồng một số cây ở vườn đền chùa vừa làm cảnh vừa làm thuốc, và ở gia đ́nh, mọi người ít nhiều đều biết dùng một số cây gia vị, rau quả hay các vị thuốc thường có quanh ḿnh, cùng các phép xông hơ, chườm nóng, xoa bóp... để chữa một số bệnh ban đầu, khi mới xảy ra, rất tiện lợi.
Truyền thống y học của Tuệ Tĩnh đă phục vụ đắc lực sức khỏe nhân dân từ bao đời nay, sự nghiệp trước tác của ông đă giữ một vị tri trọng đại nhất trong lịch sử y học Việt Nam. V́ vậy, nhân dân ta đă lập đền thờ ông: Đền Thánh thuốc nam ở quê hương thôn Nghĩa Phú, xă Cẩm Vũ, đền Bia ở thôn Vǎn Thai, xă Cẩm Vǎn, miếu Nghè ở chùa Giám, xă Tân Sơn, huyện Cẩm B́nh, tinh Hải Hưng. Ngoài ra, ông c̣n được thờ là Thành hoàng ở xă Yên Lư, huyện Thủy Nguyên, ngoại thành Hải Pḥng (có sắc phong là Thượng thượng dẳng phúc thần nǎm 1572, theo thần phả do Nguyễn .Bính, Đông các đại học sĩ ở Viện Cơ mật triều Lê soạn).
Ngày nay, các di tích nói trên đă được Bộ Vǎn hóa xếp hạng là di tích lịch sử để tưởng nhớ công đức của vị Đại danh y Tuệ Tĩnh đối với sự nghiệp bảo vệ sức khỏe của dân tộc ta.
===================
Sưu tầm
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|