nhonguoixua76
member
ID 70120
10/31/2011
|
Ông ngoại đánh cháu dă man v́ mất chiếc Huân chương
Ông ngoại đánh cháu dă man v́ mất chiếc Huân chương
ANTĐ - Nạn nhân là em Mai Hoàng Tuấn, 12 tuổi, ở ấp 1, xă Long Trị, huyện Long Mỹ, đă nhập viện tại Bệnh viện Đa khoa huyện Long Mỹ đêm 24-10, trong t́nh trạng mặt mày bị bầm tím, sưng tấy và cổ của em có vết đỏ do bị dây thắt.
Em Mai Hoàng Tuấn đang điều trị tại bệnh viện.
Qua lời kể của em Tuấn, sáng ngày 24-10, ông Mai Thành Đẽn, là ông ngoại của em, bị mất chiếc Huân chương. Ông Đẽn nghi em Tuấn đă lấy trộm và đem bán. Ông Đẽn đă rầy la và đe đánh em Tuấn. Do sợ Tuấn bị đánh nên bà ngoại kêu Tuấn ra ngoài đồng ngủ.
Ông Đẽn ra tận ruộng dùng dây luột trói tay và chân em, rồi dùng dây siết cổ và đánh em sưng mặt mày, chảy máu ở mũi, miệng. Một người cậu đă phát hiện và đưa em Tuấn tới bệnh viện. Theo như lời kể của em Tuấn, đây không phải là lần đầu tiên ông Mai Thành Đẽn đánh đập em một cách dă man như vậy.
Ngay sau khi biết được sự việc, cơ quan công an đă tiến hành điều tra vụ việc; các cơ quan ban ngành, đoàn thể địa phương cũng đă đến thăm hỏi em Tuấn.
Theo Hậu Giang online
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
vitbuocno
member
REF: 616767
10/31/2011
|
Ôi trời ơi là trời, không thể tưởng tượng được, bạn Vịt hết cả câu từ để diễn tả, không biết đến khi nào mấy chuyện đau ḷng như vậy mới chấm dứt cơ chứ. Nh́n bé thương quá đi .... hic hic.
|
|
mayha2000
member
REF: 616792
10/31/2011
|
chi vi mot cai huan chuong dom ma uynh chau ruot cua minh da man hon loai cam thu
potay + pochan.com voi ong ngoai nay luon...
that la dau long...huhuhu
|
|
aka47
member
REF: 616805
10/31/2011
|
Một cái Huân Chương giá trị lắm chứ.
Ít ǵ cũng đă nhiều lần thoát chết v́ chiến tranh , hú hồn ...c̣n sống để có cái Huân chương.
Cái Huân Chương là một chết một sống chứ ít ỏi sao.
Thằng Bé này tệ quá , dám rờ vô cái Huân Chương.
Nhưng nhà nước khôn tổ mẹ , thập tử nhất sanh như vậyk chỉ có được cái huân chương...dỏm , c̣n chu cấp hằng tháng , tiền của bộ đội về hưu , tiền phụ giúp y tế , sinh sống chỗ ăn chỗ ở th́ im re , nên ổng mới quí cái Huân chương.
Nếu không ổng chẳng tha thiết ǵ.
Trách là trách Bộ Thương Binh Xă Hội đấy , tụi nó mù hết rồi chỉ thấy tiền là sáng thui.
Cũng có thể Ông Ngoại này uưnh em bé cũng như uưnh nhà nước vậy nếu nghĩ một chút nghĩa bóng.
hihii
|
|
ototot
member
REF: 616811
10/31/2011
|
Mỗi lần nghe nói đến hai chữ "huân chương", tôi lại nghĩ đến chữ "mề đay" do thực dân Pháp để lại, thành cái ... "gia tài" cho "mẹ Việt Nam" ! (Xin phép được mượn tạm chữ "gia tài" cuả Trịnh Công Sơn, cái gia tài cuả cả ngàn năm nô lệ giặc tầu, 100 năm nô lệ giặc Tây, và bao nhiêu năm nưă cuả giặc ǵ???!!!)
Th́ ra cũng là v́ cái đó mà không biết bao nhiêu người Việt Nam, đă qua bao thời đại thăng trầm, vưỡn cứ phải ôm lấy nó để mà sống, cho dù đă bắt đầu ... ngửi thấy cái mùi thum thủm thoát ra từ nó rồi!!!
Đọc tin th́ cũng nhớ đến bài thơ Cô Tây Đi Tu cuả Trần Tế Xương ngày xưa, thấy cái ông đánh cháu này có tư cách ... thua xa "con đĩ lấy Tây" ngày xưa, v́ con đĩ mà về già c̣n biết t́m đường đi tu, chứ ông này xem ra c̣n mê muội quá!
Mời bà con đọc lại bài thơ trên:
Rứt cái mề đay ném xuống sông
Thôi thôi tôi cũng "mét x́" ông !
Âu đành chùa đó, âu đành phật
Cũng chẳng con chi, cũng chẳng chồng.
Chớ thấy câu kinh mà mặc kệ
Ai ngờ chữ "sắc" hoá ra "không" !
Tôi đây cũng muốn như cô nhỉ
Cái nợ trầu duyên rũ chửa xong!
Thân ái
|
|
dulan
member
REF: 616821
10/31/2011
|
...
DL xin chào Bác Ototot,chào cả nhà,
Thấy Bác đem Đường,cháu cũng đem Đường dzô cho dzui,bác đem mề đai cháu cũng đem bắng cấp dzô ..hihi..mề đai qúy như dzậy th́ bằng tiến sĩ của qúy vị nhà nước cũng qúy lắm đó :
Nguyễn Khuyến nói ... Tiến sỹ Giấy
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rơ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ ?
Cái giá khoa danh thế mới hời!
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!
(Ai đă học thơ Đường luật ngày trước chắc cũng biết Nguyễn Khuyến và Tú Xương có những điểm tương đồng ...)
DL cũng xin chào thân ái!
|
|
aka47
member
REF: 616837
10/31/2011
|
Chị DL ui.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương có phải là những Ông Quan Đaị Thần ngày xưa không?
Hay chỉ là những nhà thơ thôi.
VN ḿnh có nhiều nhân tài xây dựng đất nước , lúc đó dân ḿnh có biết ǵ về CNXH đâu mà bây giờ nhà nước khẳng định YÊU TỔ QUỐC LÀ YÊU XHCN.
Nghe sao tức cười.
hihii
|
|
dulan
member
REF: 616862
11/01/2011
|
AKA,trích chút đỉnh cho em đọc đây :
----------------------------------------------------------------------
....giống hay khác ...?
Hồn thơ Nguyễn Khuyến
chính là "Tiếng sáo vo ve" bên trời "nước vọng", là "bóng trăng trôi"dưới ḍng lũ vô t́nh cuộn xiết, hóa chiếc thuyền thơ cô độc len lỏi trên thi đàn Việt Nam thuở cơn lụt lội nhân t́nh thế thái ngập tràn xứ sở. Ngay trong hai câu thơ hay đến sững sờ tả cảnh đẹp hun hút, đẹp rờn rợn nổi gai ốc của nước lụt Hà Nam này, Nguyễn Khuyến cũng chỉ cốt mượn nước lụt mà gọi hồn nước về trong từ "nước vọng" để : "Sửa sang việc nước cho yên ổn"... Tâm thức "nước", "nước non", "đất nước"... có thể nói là tâm thức chủ đạo của Nguyễn Khuyến trong cả thơ nôm và thơ chữ Hán; tuy ở đây chúng tôi chỉ mới khảo sát qua thơ nôm của ông mà thôi. Trong bài thơ "Tự trào", Nguyễn Khuyến nói thẳng ra điều cốt lơi nhất, đau đớn nhất của ông là nỗi nhục, nỗi đau vong quốc, thông qua nghĩa đen của cuộc chơi cờ :"Cờ đương giở cuộc không c̣n nước". V́ "Không c̣n nước " nên vua cũng không c̣n thực nữa, chỉ là vua hề, chỉ là quan phường chèo thôi :" Vua chèo c̣n chẳng ra ǵ / Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề "( Lời vợ anh phường chèo). Một vị túc nho lấy trung quân ái quốc làm đầu, phải tự t́m nhọ nồi, muội đèn, tro trấu mà bôi trát lên mặt vua quan thành tṛ hề như thế, với Nguyễn Khuyến hẳn là nỗi đau lớn nhất trong đời? V́ "Không c̣n nước" nên sau hơn 12 năm làm quan tới chức Tổng đốc Sơn Tây, lúc vua Tự Đức mất và vua Hàm Nghi ra chiếu cần vương chống Pháp, nhà thơ mượn cớ mắt ḷa cáo quan về ẩn dật cùng cà thâm dưa khú. Ông buồn lặng hóa "mây côi", hóa "hạc độc", hóa thành " hoa năm ngoái", thành "ngỗng nước nào", thành con cuốc gọi hồn nước năm canh, thậm chí hoá thân vào mẹ Mốc, vào gái góa, vào anh giả mù, giả câm giả điếc, thậm chí giả điên kiểu Sở cuồng, làm thơ đả kích giặc và tay sai, như một cách yêu nước kháng Pháp của riêng ḿnh... Nguyễn Khuyến đau đớn nhận ra hoa nở ngoài giậu thu cũng không c̣n là hoa hôm nay của ḿnh nữa, ngỗng kêu trên bầu trời quê hương dĩ nhiên là ngỗng nước ḿnh, chứ sao lại là ngỗng nước nào:" Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái / Một tiếng trên không ngỗng nước nào" ?( Thu vịnh). Khi "Không c̣n nước" nữa th́ con ngỗng kia cũng thành vong quốc, vong thân, thành "ngỗng nước nào"thôi. Phải chăng ngỗng ấy cũng là ngỗng từ năm ngoái, ngỗng của ḿnh xưa mà không dám nhận, mà phải đau đớn than là "ngỗng nước nào"? Rằng người không c̣n giữ được nước th́ bay về làm ǵ ngỗng ơi? Nhà thơ tủi hổ với cả ngỗng trên trời và hoa dưới đất, muốn làm con cá lặn khuất dưới ao bèo, ngại cả nỗi cắn câu. Đất đă mất th́ trời phỏng c̣n ư, mùa thu phỏng c̣n ư ? Hoa ấy, ngỗng ấy cũng là Nguyễn Khuyến; như "mây côi" và "hạc độc" kia c̣n bị vong thân, vong quốc huống nữa là trời đất, con người! Chúng tôi cho rằng, dù viết về phong cảnh mùa thu nông thôn , dù nới rộng đề tài ra từ bản thân ḿnh đến xă hội, từ chim hoa, xóm mạc đến nước non... hồn thơ Nguyễn Khuyến bao giờ cũng toát lên một tinh thần yêu nước sâu xa, yêu nước trong đau đớn, tủi buồn, yêu một cách trầm lắng mà sôi sục, quặn thắt mà quan hoài, trào lộng mà trữ t́nh, kín đáo mà động vang, cô đơn mà ḥa nhập, lạnh lùng mà bỏng cháy, dữ dội mà dịu êm. Bút pháp nghệ thuật bậc thầy dùng thuỷ nói hỏa, dùng tĩnh tả động, dùng dương tả âm, dùng vật tả tâm, dùng cảnh ngụ t́nh và ngược lại của Nguyễn Khuyến đă khiến không ít người khi tiếp cận thi ca ông, mới đụng vỏ ngoài đă tưởng thấu vào gan ruột. Ví như trường hợp ba bài thơ thu của thi hào là bài "Thu vịnh", "Thu điếu", "Thu ẩm" được coi là dấu hiệu thiên tài của nhà thơ nông thôn đệ nhất Việt Nam mà có người, ngay cả khi viết sách giáo khoa cũng chưa thẩm hết hồn thu Nguyễn Khuyến. Họ nh́n bằng mắt thường nên ngỡ mặt ao thu b́nh lặng kia là đáy nước, nên bảo nhà thơ viết về mùa thu với tâm trạng thư thái, an nhàn(!) Rằng nhà thơ uống rượu say nhè như anh Chí Phèo say rượu lè nhè vậy...Không, Nguyễn Khuyến chỉ hớp một tí rượu trong chén hạt mít lấy hứng, chứ không say lè nhè như ai hiểu. Dưới cảnh thu, ngồi nhấp chút rượu thu, câu cá thu, làm thơ thu, nhà thơ chỉ mượn bề mặt tĩnh lặng ao thu mà tả sự động vang sôi sục, quặn thắt, u uẩn, buồn thương nơi thẳm đáy ḷng ḿnh , đặng gọi hồn nước đă mất về thương hồn thu hiển hiện. Nói theo kiểu Apollinaire, Nguyễn Khuyến chừng cũng cảm thấy hồn thu đă chết, đă bỏ đi đâu như hoa kia ngỗng nọ, chỉ c̣n thân xác thu trong veo, cô quạnh, vắng ngắt, bàng bạc như con ve mùa hè nằm chết trong mùa thu sau khi đă hát rỗng cả ruột gan. Tả lửa song Nguyễn Khuyến vẽ khói, tả nước mà nói thu, tả nỗi thẹn ḿnh, tủi lây sang thu mà phải mượn tới ông Đào Tiềm đời Tấn. Cũng có thể gọi ba bài thơ thu của ông là tiếng chiêu hồn thu, chiêu hồn nước. Ngồi thưởng thu không chút thư nhàn, đau xót quá, cảm thương nước mất mà sao thu vẫn rưng rưng t́m về, nên nhà thơ không đừng ḷng được, đành rơm rớm khóc :" Mắt lăo không vầy cũng đỏ hoe"? Đừng đổ oan cho Nguyễn Khuyến "mắt đỏ hoe" v́ say rượu. Mùa thu trong ba bài thơ đẹp đến lạnh ngắt, đẹp đến tột cùng cô đơn, u tịch, phải chăng v́ mùa thu chưa chiêu được hồn "hoa năm ngoái", chưa gọi được vía " ngỗng nước nào"...? Cám cảnh thay nỗi " Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được" của nhà thơ, như thể ông là tù binh của cần câu, là tù binh của chính hồn ḿnh đang ở đâu đâu trong trời đất mang mang thiên cổ lụy? Nguyễn Khuyến yêu nước lắm, thương ṇi lắm, đau đớn nỗi đời quay quắt lắm, đành giấu kín t́nh yêu nước vào cảnh thu, ao thu, rượu thu như cá giấu dưới ao bèo. Thi thoảng, ta nghe một tiếng "Cá đâu đớp động dưới chân bèo", như nhà thơ ngầm an ủi ḿnh rằng c̣n cá tức nhiên c̣n nước...V́ vậy, Nguyễn Khuyến rút ruột hóa thân vào hồn Thục Đế xưa, thành con cuốc gọi hồn nước nay đến chảy máu cả đêm hè :" Năm canh máu chảy đêm hè vắng / Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ / Có phải tiếc xuân mà đứng gọi / Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ " ( Cuốc kêu cảm hứng ). Thương thay cho "Ngỗng nước nào" vẫn không chịu bay đi, c̣n kêu xé trời cao trong thảng thốt nỗi niềm dù mùa thu đă chết. Con ngỗng vong thân, găy cánh, đáp xuống trang thơ mà hóa thành con cuốc Việt Nam chiêu hồn nước tới bây giờ. Bài thơ "Cuốc kêu cảm hứng" thật hay, thật đoạn trường, đọc xong muốn khóc. Chúng ta thương và kính trọng Nguyễn Khuyến vô cùng. Ông đă nén cả một nhân cách lớn, một hồn thơ lớn, một tri thức lớn, một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay.Tinh thần hoài cổ, tinh thần "Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ " len lỏi vào mọi tâm sự, mọi vui buồn, thương giận, nhớ nhung của nhà thơ. Ngay cả khi vịnh ông phỗng đá với ngụ ư diễu ḿnh, nhà thơ vẫn xót xa hỏi :" Non nước đầy vơi có biết không ?"Chính v́ nỗi "non nước" khôn nguôi này làm ông tủi hổ, làm như lỗi tại ḿnh mà nước mất nhà tan, nên mượn thơ mà cả thẹn :" Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già / Xuân về ngày loạn càng lơ láo ". Một người tài cao, học rộng, thương xót, nương nhẹ từng cọng cỏ nhành hoa, một nhân cách lớn, khiêm cung tự tại, lại phải đưa ḿnh ra mà diễu, mà tự cười cợt, bông phèng ḿnh th́ hẳn là phải đau đớn lắm, khổ tâm lắm :"Mở miệng nói ra gàn bát sách / Mềm môi chén măi tít cung thang / Nghĩ ḿnh lại gớm cho ḿnh nhỉ " hoặc :" Lúc hứng uống thêm dăm chén rượu / Khi buồn ngâm láo một câu thơ ". Một người thính nhạy như Nguyễn Khuyến từng biết nghe bằng hồn, bằng vía, chán nỗi đời đục mà giữ ḿnh trong, đành ngụ ḿnh, nương ḿnh làm "Anh giả điếc ":" Trong thiên hạ có anh giả điếc / Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây" ...." Sáng một chốc lâu lâu rồi lại điếc". Phải giả mù, giả câm, giả điếc để sống, mà vẫn sống được trong xă hội nhố nhăng nửa thực dân phong kiến thối nát, đảo điên kia, mới thương cho Nguyễn Khuyến phải ra tuồng trong chính thân phận ḿnh:"Mua vui lắm lúc cười cười gượng / Giả dại nhiều khi nói nói bông". Mượn sự điên dại của " Mẹ Mốc" tỏ bày tâm sự, Nguyễn Khuyến như tự xé quần áo tinh thần ḿnh để phơi bày "h́nh hài gấm vóc" ra mà che mắt thế gian, những mong yên ổn :"Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nḥa / Làm thế để cho qua mắt tục ". Mẹ Mốc ấy là tâm hồn vằng vặc muôn sau của Nguyễn Khuyến, sống trong thế giới của những "** cầu Nôm", "Tiến sĩ giấy", "Hội Tây"...vẫn không chút bợn nhơ :" Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết / Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ "... Nhà thơ vô cùng căm ghét bọn cướp nước và bán nước. Ông dùng tài thơ trào phúng vừa hóm, sâu, vừa cay độc đến tận cùng mà váy hóa lá cờ tam tài của giặc trong tiếng cười thâm thuư :" Ba vuông phất phới cờ bay dọc / Một bức tung hoành váy xắn ngang". Hóa ra cái váy con ** của thời :" Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó" đă được kéo lên thành cờ "ba vuông" phất phới, ngang dọc, làm b́nh phong che mặt tham quan ô lại đục nước béo c̣. Nguyễn Khuyến mang vũ khí trào lộng vạch mặt chúng bằng tiếng cười cay độc :" Có tiền việc ấy mà xong nhỉ / Đời trước làm quan cũng thế a ?" Phải sống trong thời " ** mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc " làm sao Nguyễn Khuyến không thẹn thùng, tủi hổ, xót xa cả hồn thơ, đành than trời :" Thử xem trời măi thế này ư ?". T́m mùa thu ẩn ḿnh không yên ổn, núp vào ḿnh cũng không xong, nhà thơ đôi khi phải trốn vào giấc mơ mà chơi tṛ đánh bùn sang ao bản thể, mà lẫn lộn bóng ḿnh với bóng người, lấy hư làm thực bằng một câu thơ tuyệt hay, rất hiện đại :" Bóng người ta nghĩ bóng ta / Bóng ta, ta nghĩ hóa ra bóng người"( Bóng đè cô đầu).
Thơ nôm Nguyễn Khuyến hay cả ở thần lẫn ở thái, ở h́nh lẫn ở thể, ở hồn chữ dân gian, gợi cảm, mới lạ, hiếm thấy ví như :" Quyên đă gọi hè quang quác quác / Gà từng gáy sáng tẻ tè te ...Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe ", " Bán buôn gió chị với trăng d́"...Nguyễn Khuyến quả là thánh chữ khi dùng động từ "thập tḥ " trong câu thơ thần t́nh sau :"Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cụm / Xanh xanh như sắp thập tḥ hoa". Câu thơ "sắp thập tḥ hoa" này mang đặc trưng nhất của phong cách Nguyễn Khuyến. Từ đây, ta có thể thấy thi pháp " thập tḥ hoa" là thi pháp độc đáo kỳ khu của thơ ông : thập tḥ giữa t́nh và cảnh, giữa vật và tâm, âm và điệu, cảm và thức, thập tḥ giữa thực và hư... kiểu "hoa năm ngoái" và "ngỗng nước nào"... Nguyễn Khuyến mượn cảnh đẹp nông thôn mà yêu nước Việt, một t́nh yêu buồn thương u uất được thể hiện bằng nghệ thuật trữ t́nh trào phúng của thơ bậc thầy. Ông chính là ngọn Đọi sơn của thi ca Việt Nam, nơi nhà thơ từng viết: " Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá / Sư cụ nằm chung với khói mây". Không, chính là hồn thơ Nguyễn Khuyến vẫn "nằm chung với khói mây" trên đỉnh trời thi ca dân tộc. Thắp nén hương ngày tết tưởng nhớ lần giỗ thứ 90 của Nguyễn Khuyến, cũng là dịp cho ta đọc lại câu thơ hay nhất của thi hào mà giật ḿnh trước tấm ḷng trắc ẩn và tư tưởng sâu sắc của tiền nhân, đă có nhă ư mượn tóc gió mà dối lại cho đời sau câu hỏi nhức nhói khôn cùng của triết học nhân sinh :"Ngọn gió không nhường tóc bạc a ?". Vâng, ngọn gió thời gian, ngọn gió của quy luật muôn đời không nhường tóc bạc thời đại Nguyễn Khuyến đă đành, mà kể cả thời đại chúng ta, nó cũng không biết nhường ai cả, dù là tóc bạc của thi ca, của thiên tài đi chăng nữa.,.
Hồn thơ Tú Xương
Thơ Tú Xương là một đặc sản của thời cuộc. Thời cuộc buổi Tây sang, đánh cướp được nước ta rồi, họ hạ trại tính chuyện ăn ở lâu dài và khai thác các nguồn lợi. Họ du nhập áp đặt lối sống của họ. Họ tạo ra một thứ người Việt tôi tớ. Làm tôi tớ mà lại dị hợm. Dị hợm v́ cơm thừa canh cặn, cũng dị hợm với lối sống học mót ngoại bang, từ nói năng x́ xồ nói ít tiếng Tây, đến ăn uống sáng rượu sâm banh tối sữa ḅ.
Đấy là bọn quan lại tay sai phủ, huyện, tổng đốc, nhưng đông hơn, gặp chan chát ngoài đời và tạo nên nét đổi thay cả xă hội, lại là lớp công chức ăn lương Pháp, ấy là các thứ thông, kư, phán, tham… cho đến các thầy cẩm, thầy c̣. Lớp người này sống ở các thành thị, làm nên nét đặc trưng của phố phường thời ấy.
Cái bối cảnh xă hội nhố nhăng tủi nhục ấy đă lọt vào tầm cảm hứng của Tú Xương, một người sinh và sống ở phố phường Nam Định. Xă hội Nam Định cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi hiện lên, cụ thể, chi tiết là hiện từ thơ Tú Xương. Và chỉ trong thơ Tú Xương nó mới phong phú, sinh động đủ cho hôm nay ta đọc mà c̣n như được chung khóc cười với tác giả.
Thơ Tú Xương thành một bảo tàng nhan nhản những hiện vật thời cuộc của riêng Nam Định và cũng là của chung điển h́nh cho cả nước trong cái thời bi phẫn đó. Đạo lư băng ngoại, đồng tiền lên ngôi, chất người xuống giá. Tú Xương ngửa mặt kêu trời cho cái mảnh đất Phố phường tiếp giáp với bờ sông:
Có đất nào như đất ấy không?
(…) Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như *** sắt
Tham lam miệng thở những hơi đồng
Tú Xương bi phẫn trong bài thơ Đau mắt:
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ
Giương mắt trông chi buổi bạc t́nh
Từ bệnh đau mắt đă thành nỗi đau con mắt lúc trông đời. Ông c̣n đau trong trái tim. Đau khi đêm vắng trong tâm trí nghe vọng tiếng gọi đ̣ trên con sông đă lấp.
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣
Sông Lấp ấy là của Nam Định, nhưng tiếng gọi đ̣ th́ đă thành tiếng gọi hồn sông núi của con dân cả nước. Cái giật ḿnh Tú Xương là cái giật ḿnh thân phận của cả một dân tộc.
Tú Xương là nhà thơ đặc sắc của toàn dân, của mọi địa phương. Các thế hệ học tṛ đều học và nhớ thơ ông.
Trong các nhà thơ viết bằng thứ chữ vuông tượng h́nh, ông là người đầu tiên và cũng là cuối cùng, đă đưa được không khí thị dân tiền tư bản vào thơ. Ông đă mang được chất liệu, lẫn cảm xúc hiện đại của thế kỷ XX vào các câu thơ được gọi là cổ điển.
Nguyễn Khuyến, nhà thơ lớn cùng thời với ông, sinh trước ông 35 năm và mất sau ông hai năm, tài thơ cũng cao, nhưng không giàu chất sống hiện thực bằng ông, không đủ gay gắt việc đời như ông. Nguyễn Khuyến là ông đại khoa(Tam Nguyên Yên Đổ ) không có được cái cay đắng Trần Tế Xương, hay chữ mà lều chơng đến tám khoa, từ 1885 đến 1906, chỉ được cái tú tài.
Nỗi từng trải ấy đẻ ra cái nh́n hiện thực trào lộng vỗ mặt vào thứ khoa cử cuối mùa, đào tạo tôi tớ cho thực dân xâm lược:
Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng
Đầu đối với đít là nhục th́ lấy động từ ngỏng mà trả thù. Hiện thực ấy là hiện thực của thành Nam, nó nhỡn tiền đối với Tú Xương, nơi có trường thi lôi thôi sĩ tử.
Một tỷ lệ lớn thơ Tú Xương là thơ nói việc đi thi, hỏng thi, gắn nhiều tên đất, tên người của Nam Định. Tú Xương khi trữ t́nh th́ c̣n tiêu tao ước lệ Tam Đảo Ngũ Hồ, chớp bể mưa nguồn chứ Tú Xương khi đă hiện thực th́ nhân chứng vật chứng cụ thể lắm, chi tiết đủ độ tin cậy làm hồ sơ cho lịch sử:
Ở phố hàng Song thật lắm quan
Thành th́ đen kịt, Đốc th́ lang
Rồi những ông lang Xán, chú ích Sinh, kẹo Thiều Châu, bánh Hanh Tụ…
Nguyên liệu tạo nên thơ Tú Xương là Nam Định. Từ Nam Định hồn thơ ông đă ôm và đất nước, bao quát một giai đoạn lịch sử. Tú Xương hộ khẩu thường trú ở phố hàng Nâu, ở phố hàng Nâu có phỗng sành.
Phố hàng Nâu bây giờ là phố Minh Khai, căn nhà số 280. Gia đ́nh ông Trần Ngọc Thành đă ở đây từ năm 1952, căn nhà sửa chữa nhiều lần, giờ đây lại xây một căn mới phía trước. Nhưng vẫn c̣n giữ được căn nhà gác hai tầng của Tú Xương nằm khuất phía sau. Khách thăm xin phép vẫn được gia chủ rộng ḷng cho vào thăm. Nhưng phải là người biết, chứ khách văng lai đi qua ngoài phố không ai biết đây là nơi ăn ở của Tú Xương. Căn gác đă ọp ẹp lắm. Phải chăng người chủ thổ cư này chưa phá đi xây lại là v́ trong ḷng một cư dân Nam Định cũng c̣n lưu luyến chút hơi hướng Tú Xương.
Thơ Tú Xương đă tạo nên phần đặc sắc cho một giai đoạn thơ ca dân tộc và độc đáo hơn, nó đă thành tâm hồn của phố phường Nam Định. Những dấu tích c̣n lại của cuộc đời ông đă thành phần tài sản quư báu của thành phố, thành sức thu hút, thành nơi chiêm ngưỡng của đồng bào cả nước khi về Nam Định. Thời gian càng lùi xa, đời sống văn hóa của dân ta càng được nâng cao, những dấu tích ấy càng trở nên vô giá.
Nghĩ vậy nên mong muốn ủy ban tỉnh, ngành văn hóa nên mua lại căn nhà 280 Minh Khai, chỉ có 102 mét vuông đất, để rồi tôn tạo, phục hồi giữ lại nguyên dạng căn nhà cũ, gắn biển kỷ niệm, ǵn giữ cho đồng bào cả nước di tích của nhà thơ và cũng là dấu vết kiến trúc một Nam Định cái thời Trời đất xoay ra phố cả làng.
Đối diện với căn nhà ở của ông Tú, bên kia đường, c̣n gian nhà ông ngồi dạy học. Gian nhà giột nát, người ta đă phải trùm tấm tôn lên một nửa mái ngói, nhưng vẫn c̣n tường vách rui mè cũ và phía trước, cuối cái sân con, c̣n một bức phù điêu vôi vữa h́nh cuộn thư, có chữ triện. Mưa nắng phôi pha nhưng vẫn đủ gợi bâng khuâng thương nhớ người xưa.
Phục chế lại nhà cửa, phục hiện và sưu tầm lại nghiên bút, lều chơng, thi cử thuở xưa, biến đây thành bảo tàng Tú Xương, bảo tàng thơ và bảo tàng việc học. Đấy không chỉ là tấm ḷng chúng ta ghi ơn nhà thơ mà c̣n dấy nên niềm tự hào của con dân Nam Định về truyền thống hiếu học tự bao đời.
Tiếng gọi đ̣ trong bài thơ Sông Lấp của Tú Xương làm xao xuyến mọi ḷng dân Việt bởi cái âm hưởng như gọi hồn đất nước. Theo tôi đấy là bài thơ hay nhất của Tú Xương, và cũng là bài thơ của một giai đoạn lịch sử, của hồn vía Việt Nam sâu nặng.
Hai câu thơ trích từ bài này đă được các nhà quản lư văn hóa khắc trên bia mộ Tú Xương, nơi vườn hoa Vị Xuyên. Ngôi mộ được di dời từ những năm đất nước c̣n gian khổ. Ngày ấy có người kêu, trách ngành văn hóa: ép cụ Tú rời xa đồng ruộng, vào nằm nơi bụi bậm thị thành, vườn hoa bóng liễu, trai gái trăng hoa. Bây giờ nh́n cả quần thể kiến trúc nơi đây, một vùng trang trọng nhất của thành phố, nơi mọi du khách đều đến thăm viếng, mới thấy việc chuyển mộ Tú Xương năm ấy là có lư. Chỉ tiếc trong hai câu thơ trích, khắc quốc ngữ trên bia, có một chữ sai, nên sửa.
Trở lại bài thơ Sông Lấp, bài thơ mang hồn ông Tú. Nam Định ta nên cố định dáng vẻ tâm hồn gọi đ̣ đêm này bằng một bức tượng Tú Xương, y phục dân tộc, chới với gọi đ̣. Bức tượng nh́n ra sóng nước sông Đào, bên chỗ Cầu Đ̣ Quan thoáng đăng. Tú Xương gọi hồn nước. Chúng ta gọi hồn ông. Chúng ta tự hào truy lĩnh tài sản tâm hồn ông để lại và qua bức tượng chúng ta cũng bàn giao ḷng biết ơn Tú Xương với mai sau.
Một ông Nguyễn Khuyến th́ đau đáu với thời cuộc, chửi kẻ ác thâm thúy (Hoàng Cao Khải, mụ Tư Hồng...) Một ông Tú Xương thơ hay mà thi cử th́ lận đà lận đận nên ngông cuồng trong hồn thơ. Thế đó.
Đ́nh Ba
(Các) nguồn
Tham khảo bài của nhà thơ Vũ Quần Phương
---------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Khuyến (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến
Tên thật NGUYỄN THẮNG
Sinh : 15 tháng 2, 1835(1835-02-15)
Văn Khế, Hoàng Xá, Ư Yên, Nam Định
Mất : 5 tháng 2, 1909 (73 tuổi)
Yên Đổ, B́nh Lục, Hà Nam
Bút danh Nguyễn Khuyến
Quốc gia Việt Nam
Dân tộc Kinh
Học vấn Giải nguyên, Hội nguyên và Hoàng giáp
Chủ đề Văn học
Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng [1], hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xă Hoàng Xá, huyện Ư Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông là làng Và, xă Trung Lương, huyện B́nh Lục, tỉnh Hà Nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.
Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (1796-1853), thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (1799-1874), nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.
Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên phẫn chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đ́nh Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.
Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngăi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây.
Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.
______________________________________________________________________________
AKA , đọc chuyên xưa để nhớ chuyện nay (...?),DL st vài ḍng cho Aka đọc,thế thôi,Aka t́m hiểu thêm về Tú Xương nhé ! Viềt nhiều ở đây lại đi xa qúa chủ đề của topic ...
DL chỉ tóm gọn đoạn trên xuống đây 1 lần nữa để nhường topic cho các bạn vậy :
Rằng người không c̣n giữ được nước th́ bay về làm ǵ ngỗng ơi? Nhà thơ tủi hổ với cả ngỗng trên trời và hoa dưới đất, muốn làm con cá lặn khuất dưới ao bèo, ngại cả nỗi cắn câu. Đất đă mất th́ trời phỏng c̣n ư, mùa thu phỏng c̣n ư ? Hoa ấy, ngỗng ấy cũng là Nguyễn Khuyến; như "mây côi" và "hạc độc" kia c̣n bị vong thân, vong quốc huống nữa là trời đất, con người!
Thân ái!
DL.
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|